Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa - Lời tựa, nguồn gốc, những điểm cần biết, phép đọc Tam Quốc

 LỜI TỰA CỦA THÁNH-THÁN 

1 Trước đây, ta đã chọn 6 “tài-tử-thư”, là Trang, Tao, Sử ký của Tư-mã Luật-thi của Đỗ, Thủy-hử và Tây Sương, rồi lạm phê-bình cầu-thả, hiệu đính câu được câu chăng. Thế mà hải-nội chư-quần lại cho ta là kẻ biết nhận xét. Gần đây lại đọc đến bộ “Tam-quốc-chí diễn-nghĩa”, thì thấy rằng chuyện đều căn-cứ vào những biến cố có thực, không phải do tưởng tượng, so với kinh-sử rất là gần gũi. Xem thế thì không gì kỳ diệu bằng Tam-quốc-chí vậy. Hoặc hỏi rằng: Từ Tần Chu về trước, Hán Đường về sau, có rất nhiều chuyện “diễn nghĩa” dựa vào sử mà viết, nào 5 có khác gì Tam-quốc-chí, mà sao ta lại khen Tam-quốc-chí là kỳ? Thưa rằng: Cục diện Tam-quốc đã là một cuộc tranh thiênhạ ly-kỳ đệ nhất cổ-kim, mà người “diễn-nghĩa” Tam-quốc lại là tiểu-thuyết-gia có tay bút kỳ-diệu đệ nhất kim cổ. Trong các cuộc tranh thiên-hạ ở những đời khác, chỉ có những việc thường thường. Người căn-cứ theo sự việc để viết truyện, cũng chỉ là những cây bút thường. Cho nên những truyện ấy không thể nào sánh với Tam-quốc-chí được. Ta thường ngẫm cuộc tranh thiên-hạ đời Tam-quốc mà than rằng: vận Trời biến chuyển thật có chỗ không thể nào lường được. Như cái lúc Hiến-Đế nhà Hán bó tay, ĐổngTrác lạm quyền, các tay anh hùng nổi dậy một loạt, bốn bể chia lìa, giả sử Lưu-Hoàng-thúc sớm gặp tình cá nước Nam-dương, được đất Kinh-châu rồi kéo thẳng lên Hà-bắc, truyền hịch ra Hoài-nam, kế đến bình-định Giang đông, Tần-Ung... thì có phải là một Quang-Vũ thứ hai khôi phục nhà Hán không? Thế mà cơ Trời không thiên biến như vậy cho! Đổng-Trác bị giết thì lại có Tào-Tháo hiếp Thiên-tử để sai khiến Chư-hầu. Danh vị nhà Vua tuy là hư hão nhưng chính các vẫn được để nguyên. Lưu-hoàng-thúc phải chạy nạn loanh quanh chưa gặp dịp để tỏ rõ đại nghĩa cùngthiên-hạ thì khắp quốc thổ hai bên bờ Nam Bắc Trườnggiang đã về tay Ngụy, Ngô nắm giữ. Họ Lưu chỉ còn một khoảnh nhỏ ở phía Tây-Nam làm chỗ trú chân. Đã vậy, nếu không được Khổng-Minh ra đời, giúp cho một trận Xíchbích phía Đông, vung tay choán một vùng Hán-trung phía Tây, thì các đất Lương, Ích ắt cũng lọt tay Tào, mà Ngô cũng không đứng nổi làm một nước độc-lập. Như thế có phải Tào-Tháo lại là một Vương-Mãng thứ hai cướp hết thiên-hạ nhà Hán không? Nhưng cơ trời cũng chẳng biến đổi giản-dị như thế. Sau khi Tháo trốn thoát Hoa Dung, lại 6 gặp “gân gà” mà bỏ Hán-trung thì đành ngồi giữ có một phần thiên hạ, và cái thế “ba chân vạc” mới thành từ đó. Xét một Tào-Tháo, trong đời rẫy đầy tội ác, Thần với người đều giận. Nào kẻ truyền hịch kết tội Tháo, nào người chửi rủa Tháo, nào đâm chém, nào phục độc, nào đánh phá, nào đốt lửa, nào bắn tên, Tháo đã từng cụt râu, gẫy răng, từng sa hầm, ngã ngựa... hụt chết bao nhiêu lần, mà cuối cùng vẫn thoát chết. Người thù địch Tháo cũng nhiều, kẻ hùa giúp Tháo cũng lắm. Âu đó cũng là ý trời muốn chia ba thiên hạ, nên mới để kẻ gian hùng ấy sống làm tên giặc sâu mọt nhà Hán vậy. Vả lại trời sinh ra Du để làm đối thủ của Lượng, lại sinh ra Ý để kế họ Táo, có lẽ cũng sợ một trong ba chân vạc bị gẫy, nên cho nhân tài xuất hiện trùng điệp để cầm giữ lẫn nhau. Từ xưa, cảnh chia cắt đất đai đã có, cảnh xưng Vương xưng Bá từng phương đã có: nào thiên hạ chia làm 12 nước, nào chia 7 nước, chia 16 nước, nào thời Nam Bắc triều, nào là Đông Tây Ngụy, nào Tiền hậu Hán... nhưng thoảng được thoảng thua, hoặc còn hoặc mất... nhà nào bền lắm thì được một đời, chóng thì không đầy một năm, dăm bảy tháng. Chứ chưa bao giờ có cái cảnh chia cắt suốt 60 năm, khi lên cùng lên, khi mất cùng mất như cụcdiện ly-kỳ của ba nước Ngụy, Thục, Ngô vậy. Nay xem cái kỳ-diệu văn diễn-nghĩa Tam-quốc, thấy rằng sách này bực học-sĩ thượng-lưu tri-thức đọc đều phải thích thú, mà người làng quê xóm nhỏ ít học đọc đến cũng thích thú. Anh hùng hào-kiệt đọc mà thích thú. Tục tử phàm phu đọc đến cũng thích thú! Xưa, Khoái-Thông xui Hàn-Tín dựng nghiệp độc-lập, đã đưa ra lý thuyết “Tam phân”. Nhưng bấy giờ Tín đã làm tôi Hán, vì nghĩa không thể bội. Hạng-Vũ thì thô bạo vô mưu, có mỗi một mưu-sĩ Phạm-Tăng mà cũng không biết dùng, thể tất thiên-hạ phải gồm thâu vào một nhà Hán, vì Hán có đủ mưu-thần võ-tướng hợp lực đồng tâm. Thì ra cái thiên- 7 cơ chia ba đã có điềm mờ mờ báo trước từ lúc Hán mới lên, và đến khi Hán suy đồi thì thiên cơ ấy thành hình rõ rệt. Vả lại Cao-Tổ xưng Vương ở đất Hán để rồi hưng đế nghiệp. Tiên-Chúa lại xưng Vương đất Hán để rồi mất nghiệp. Một bên dẹp yên được Tam Tần. Một bên chẳng khôi phục Trung-nguyên được thước tấc... Có lẽ Trời xanh kia tạo ra nhà Hán, muốn cho nổi lên như thế, rồi bắt phải chấm dứt như kia, và sớm đã bày sẵn cuộc cờ huyền ảo... Cho nên những nhân-vật, những biến-cố đời Tam-Quốc mới mỗi người một tài, mỗi nơi một vẻ, bờ cõi riêng biệt vững bền... khác hẳn muôn đời như vậy. Đó chẳng phải là việc tối kỳ diệu của Hóa công sao? Người viết “Tam-Quốc-chí diễn nghĩa” đã dùng cái kỳ diệu của Văn chương mà ghi lại cái kỳ diệu của sự việc, lại không xuyên tạc, chỉ đem sự có thực chắp nối lại thành thứ tự đầu đuôi. Đây là điều kỳ-lạ chưa từng thấy trong nhânsự kim cổ. Một cuộc diện ly-kỳ như thế, một cuốn sách kỳ-diệu như thế, lẽ nào không có ai đem ra bình-luận? Nhưng nếu người đem ra bình-luận mà chẳng phải người “cẩm tâm tú khẩu”, không thể vì người xưa mà nhất nhất truyền lại đúng tâm tư người xưa... thì bộ Tam-Quốc diễn-nghĩa này rốt cuộc cũng đều như những bộ sách diễn-nghĩa từ Chu Tần về trước, Hán Đường về sau mà thôi. Hậu thế làm sao thấy rõ cái kỳ diệu và nhận chân được cái kỳ diệu? Ta vẫn muốn tìm ra cái kỳ diệu của bộ truyện này để nêu nên cho đời sau suy ngẫm. Nhưng còn đang băn khoăn chưa nghĩ dứt, bỗng một hôm đến nhà bạn, thấy trên án có bản cảo “phê-bình Tam-Quốc-Chí” của Mao-Tử 2 . Nhận thấy bút mực ấy quả là thú vị, tâm tư ấy quả là thâm linh, lòng ta tán đồng ngay. Và một lần nữa, ta lại thích thú mà khen rằng: Suy đi xét lại, “Đệ nhất Tài-tử thư” quả là Tamquốc-chí. 8 Vậy nay ta đề mấy lời tựa này, trao tay Mao-tử vào ngày khắc bản, để in vào đầu sách, cho đời sau đọc đến biết rằng ta với Mao-tử đồng tâm nhất ý. 

Đời Thuận-Trị, năm Giáp Thân 

Ngày mùng 1 tháng Chạp 

KIM-NHÂN THỤY, THÁNH THÁN đề

 LỜI TỰA của THANH-KHÊ CƯ-SĨ 

Xưa kia Trần-thừa-Tộ có tài lương-sử, đã soạn ra bộ “TAMQUỐC-CHÍ” chép chuyện ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Sách gồm 65 thiên, đã nhập vào chính sử. Phạm-Quần khen văn từ ấy có nhiều ý nghĩa khuyên răn, nêu rõ việc phải trái, có ích cho phong hóa. Bùi-tùng-Chi bổ-chú “Tam-quốc-chí” có thể gọi là toàn tự khả quan. Sự việc được thẩm chính, tuy còn sơ lược. Ông sưu tầm những chuyện tản mác khắp mọi nơi phàm những chuyện không thể chép vào chính văn, đều được để vào phần chú thích. Như thế, sự tích đời Tam-quốc tạm đủ. Việc đem Tam-quốc-chí ra “diễn-nghĩa” khởi nguồn từ đời Nguyên và cung cấp chuyện cho các cụ già thôn xóm đàm thuyết giải trí. Nhưng các câu chuyện đều căn cứ vào bộ sách của Trần-thừa-Tộ và Bùi-tùng-Chi, chứ không bịa đặt thêm. Chủ ý đề cao trung nghĩa, mục-đích là khuyên răn. Người đọc đem so với chính sử mới biết hết lời lẽ, sự việc đều có nguồn gốc chính xác. Truyện TAM-QUỐC-CHÍ DIỄN-NGHĨA không thể bị coi như các loại tiểu thuyết. 

Năm Hàm-Phong thứ 3, tiết Mạnh-Hạ

Người đất Câu-Ngô là 9 THANH KHÊ CƯ SĨ đề 


NGUỒN GỐC “TAM-QUỐC-CHÍ DIỄN NGHĨA” 

1) Đời Tam-Quốc tức là cái thời gian gần 60 năm trong đó Đế quốc Trung-hoa chia làm ba nước, mà ba vị vua đều xưng “Hoàng-Đế” cả. Nhưng vì phải kể từ cái nguyên-nhân đến những biến-cố mở đầu tạo ra thế “ba chân vạc”, nên bộ Tam-Quốc phải chép những biến-cố từ lúc nhà ĐôngHán suy vi cho đến lúc nhà Tấn gồm thâu 3 nước, tức là chép những chuyện từ năm “Trung-Bình” thứ I đời Hán Linh-đế đến năm “Thái-Khang” thứ I đời Tấn-Vũ-đế (và cũng là năm nhà Tấn thôn-tính nốt nước Ngô) Thời gian này gồm 97 năm. 2) Về sách truyện, trước hết có bộ “TAM-QUỐC-CHÍ” do Trần-Thọ tức Trần-thừa-Tộ đời nhà Tấn soạn ra. Sách chép tất cả 61 liệt truyện (26 truyện nước Ngụy, 15 truyện nước Thục, 60 chuyện nước Ngô) Đến đời Tống, vua Văn-đế xem bộ “Tam-Quốc-Chí” thấy còn chưa đầy đủ, mới truyền cho Bùi-tùng-Chi bổ chú thêm vào. Họ Bùi sưu tầm những câu chuyện sự tích đời TamQuốc rải-rác khắp nơi, rồi ghi thêm vào sách, thành ra có thể đối chiếu khảo chứng rõ ràng. Bộ này gồm 65 quyển và đã được đặt vào hàng chính sử. 3) Những sách, những tuồng kịch về Tam-Quốc: Cũng đời nhà Tống, có những sách bình-thoại về TamQuốc-Chí như Thuyết-tam-phân, Đông-kinh mộng-hoa-lục, Đông-Pha chi-lâm. Trong bộ Đông-Pha chi-lâm này có nói: Trẻ con họp nhau nghe kể chuyện cổ-tích. Khi nghe kể 10 chuyện Tam-Quốc, nghe đến chỗ Lưu-Huyền-Đức thua, thì ứa nước mắt buồn rầu. Khi nghe đến chỗ Tào-Tháo thua thì chúng reo lên vui vẻ. Đến đời Kim, đời Nguyên, có nhiều vở “tạp kịch” đến sự tích Tam-Quốc. Khoảng năm Chí Trị, có họ Ngô khắc bản Tam-Quốc-Chí với các tượng đồ. Lại có một bộ Tam-QuốcChí gồm 3 quyển thượng, trung, hạ bình thoại những chuyện từ khi Tư-mã-Ý ra cầm quân đến chỗ tướng tinh Khổng-Minh sa xuống Ngũ-trượng nguyên là hết. Rồi Quan-Hán-Khanh viết tuồng “Quan-Đại-vương đan đao phó hội”; Vương-Trọng-Văn viết tuồng “Thất-tinh-đàn tế phong” v.v... 4) “TAM-QUỐC-CHÍ THÔNG-TỤC DIỄN NGHĨA”: Đến đời Minh có một nhà văn đại tài, hình như là LA-QUÁN-TRUNG tham khảo hết thảy những tài liệu nói trên, rồi viết thành bộ tiểu-thuyết ký-sự này, đặt tên là “TAM-QUỐC-CHÍ THÔNGTỤC DIỄN-NGHĨA”. Sách này lúc đầu có bản khắc “Hoằng trị”. Nhưng mà hiếm quá, ít ai có mà đọc, sau này thất lạc hết cả. Đến cuối đời Minh, có Lý-trác-Ngô đưa ra một bản “Tam quốc-chí Diễn-nghĩa” với lời bình-điểm. Nhưng sau đó, bị sao đi khắc lại, dần dần sai lạc mất quá nhiều. 5) Bản in TAM-QUỐC-CHÍ DIỄN-NGHĨA ngày nay: Đầu đời Thanh, có Kim-nhân-Thụy tức Thánh-Thán, căn cứ theo bản cũ, sắp xếp thành bộ TAM-QUỐC-CHÍ DIỄN-NGHĨA, gồm 120 hồi. Đến năm Khang-Hi, có Mao-tôn-Cương tuyên-bố tìm được bản cổ, sửa sang đính chính lại, khắc thành bản mới, với lời chú thích và phần phê bình. Phần này bắt chước kiểu Kim-Thánh-Thán đính-chính phê-bình “Thủy-hử” và “Tây sương ký” cho nên gọi là phần “Thánh-Thán Ngoại-thư”. 11 Bản khắc “Tam-quốc-chí diễn-nghĩa” của Mao-tôn-Cương đó, chính là bản in lưu-hành đến ngày nay vậy. Sau đó một thời gian, bỗng có người tìm được bản cũ nhất, tức là bản khắc Hoằng-trị, thấy chia là 24 quyển, có chúthích âm nghĩa hẳn hoi, nhưng không chia thành các hồi gì cả, bản Hoằng-trị này chính là bản cũ mà phái Thánh-Thán lấy làm căn-cứ để đính-chính bản in của Lý-trác-Ngô vậy.


 NHỮNG ĐIỂM CẦN BIẾT VỀ BẢN IN NÀY 

(Lời dặn của MAO-TÔN-CƯƠNG) 

C<ác bản in “Tam-quốc-chí diễn-nghĩa” lưu hành gần đây gọi là “Tục-bản”, có những điểm sai lầm. Nay tìm được “Cổ bản” đem so sánh và đã đính chính lại như sau:

- 1) Tục-bản lời văn chữ viết quá nửa sai lầm và bất thông, lại nhiều chỗ dài dòng, ý trùng điệp nhau. Nay theo Cổ-bản sửa lại êm tai thú vị. - 2) Tục bản chép nhiều truyện sai lầm, như việc Chiêu-Liệt đế nghe sấm đánh rơi đũa, Mã-Đằng vào kinh bị hại, Quancông được phong Hán-Thọ đình-hầu v.v... đều không giống chi tiết như ở Cổ bản. Lại như Tào-chánh-hậu chửi mắng Tào-Phi, việc này thấy có chép trong “Hậu-Hán-thư” của Phạm Hoa, thế mà tục bản chép rằng Tào-hậu cũng theo ác đảng. Tôn Phu-nhân gieo mình xuống sông mà chết, việc này có chép trong “Kiêu-Cơ truyện” mà tục-bản chỉ chép đến chỗ bà về Ngô là hết. Nay xin sửa lại theo Cổbản. - 3) Tục bản chép thiếu những truyện: Quan-công cầm đuốc suốt đêm, Quản-Ninh cắt chiếu ngồi riêng, Tào-Tháo chia hương và khuyên thị-thiếp bán giầy, Vu-Cấm vào lăng thấy bức vẽ, Vũ-hầu Phu-nhân có tài, con hầu nhà Trịnh- 12 Huyền thông tuệ, Đặng-Ngải đổi chữ “Phượng hề”; ChungHội đối đáp không đổ mồ-hôi, Đỗ-Dự nghiện Tả-truyện... Nay xin thêm vào. - 4) Văn-chương Tam-quốc-chí có những giai tác, kiệt phẩm có chép trong Văn-tuyển mà Tục-bản không có, như: bài biểu Khổng-Dung tiến cử Nễ-Hành, bài hịch Trần-Lâm kêu gọi đánh Tào-Tháo... đều có thể sánh với hai bài “Xuấtsư biểu” của Khổng-Minh để lưu truyền. Vậy nay xin thêm vào để các bạn mến cổ văn xem. - 5) Những câu đề đầu hồi của Tục-bản so-le không đối, không ra chương khúc, rồi mỗi hồi lại cắt ra làm hai. Nay thể theo ý tác-giả, để liền làm một. Mỗi hồi xin đề trên đầu bằng ba bốn ý đối ngẫu chỉnh-tề để vừa mắt độc-giả. - 6) Tục bản in thêm những lời phê bình, và cứ ghi là của Lý-trác-Ngô tiên-sinh. Mà xét đến cùng, lại chẳng biết do ai viết, ai đưa vào. Lời phê-bình lại nhiều chỗ quá đường-đột khi bàn về Chiêu-Liệt-đế, thóa mạ bậy cả Vũ-hầu. Nay xin bỏ đi, và lấy lời bình mới thay vào. - 7) Điều đáng buồn cười hơn nữa là: Những việc phải trong truyện thì tục bản khen lấy khen để, những việc xấu thì bị bỏ hết. Không luận về văn mà chỉ luận vào việc, vậy thì trong Kinh Xuân Thu của Khổng-Phu-Tử có chép tới 36 vụ giết vua, 52 vụ mất nước... người sau cũng xem kinh sách của Thánh-nhân ra mà bôi xóa những vụ ấy đi chăng? Nay xin bình điểm và giữ nguyên không bôi xóa, để sửa cái óc hẹp hòi kia vậy. - 8) Những bài thơ khen, chê, than-thở... xếp xen vào giữa truyện, vốn là những áng văn-chương rất hay, thế mà tục bản chép nhiều bài dở quá, nghe rất buồn cười. Và bài nào cũng thấy ghi ở trên là “Chu-tĩnh-Hiên tiên-sinh có thơ rằng”. Nay xin bỏ những bài thơ ấy và thay vào đó bằng những bài của các thi-sĩ, danh nhân các đời Đường, Tống để duyệt-giả thưởng thức. 13 - 9) Loại thơ “Thất-ngôn luận” bắt đầu từ đời nhà Đường mới có. Đời Hán đâu có ai làm, ai chép? Thế mà tục bản cứ bịa ra những bài thơ và gán cho cổ nhân. Như những bài thơ Chung-Do, Vương-Lăng, ca tụng đài Đồng-tước, như bài thơ Thái-Mạo đề trên vách nhà quán dịch... Tục bản đều làm bịa ra theo thể thơ “Thất-ngôn luật” thật là làm trò cười cho người thức-giả. Nay xin theo cổ bản mà bỏ hết đi. - 10) Những việc mà người sau bịa ra, có việc Tục-bản không chép mà ngày nay vẫn nghe truyền lại: như việc Quan-công chém Điêu-Thuyền, Trương-Phi thét đổ cây cầu, Trương-Phi bắt được Chu Du, Quan-công thử đao chém chết người thợ rèn là cha Lục-Tốn v.v... đều là những chuyện ngoa, chuyện bịa, hẳn người đời nay đều rõ như thế. Lại cũng có những truyện mà cổ bản không có, Tụcbản lại có: như Gia-cát Khổng-Minh muốn đốt chết NgụyDiên ở hang Thượng-phương, Gia-cát-Chiêm tiếp thư Đặng-Ngải mà do dự không quyết v.v..., cũng đều là những truyện vu ngôn, nhưng đời nay còn có người chưa rõ. Không rõ là vu, thì oan cho cổ nhân lắm. Vậy nay xin bỏ hết đi, để độc giả khỏi nghe sai hiểu lầm. 


PHÉP ĐỌC TAM-QUỐC-CHÍ 

(Nguyên-tắc nhận-định về truyện Tam-Quốc của MAOTÔN-CƯƠNG và THÁNH-THÁN) 

1) Đọc Tam-quốc-chí, phải phân biệt ba hạng Triều-đại: chính-thống, nhuận-vận và tiếm-quốc: Nhà Thục-Hán là chính-thống Nhà Ngụy, nhà Ngô đều là tiếm-quốc Nhà Tấn là nhuận-vận. 14 Tại sao Ngụy không được coi là chính thống? Vì lấy đất mà luận thì Trung-nguyên là chủ, nhưng lấy lý mà luận thì họ Lưu mới là chủ. Luận đất không bằng luận lý, cho nên sách “Thông-giám” của Tư-mã-Quang đã lầm ở chỗ coi Ngụy là chính-thống. Sách “Cương-mục” của Tử-Dương (Chu-Hi) coi Thục là chính-thống, như thế mới chính đáng, đứngđắn. Sách Cương-mục, sau năm Kiến-an cuối cùng của Hán-Hiến-đế, chép tiếp ngay là năm Chương-vũ thứ nhất của Hậu-Hán Chiêu-Liệt Hoàng-đế Lưu-Bị. Còn phần hai nước Ngô, Ngụy chỉ được chia ra ghi ở dưới. Như thế là lấy Vua Thục làm con cháu nhà Hán, để lên làm chủ Thiênhạ. Ngụy là giặc cướp nước đáng đánh dẹp, cho nên phần trên sách chép việc Lưu-Bị khởi-binh ở Từ-châu đánh TàoTháo. Phần cuối sách chép việc Hán Thừa-tướng Gia-cátLượng xuất sư đánh Ngụy. Thế là Đại-nghĩa rõ rệt đến thiên cổ vậy. Vì họ Lưu chưa mất hẳn, nhà Ngụy chưa thống nhất được thiên-hạ thì Ngụy không được coi là chính-thống. Đến khi họ Lưu mất hẳn, nhà Tấn thống nhất mà Tấn vẫn không đáng gọi là chính thống là vì sao? Thưa rằng: Tấn cũng là bề tôi giết Vua, rồi cướp nước. Tấn cũng giống như Ngụy, và truyền ngôi chẳng được bao lâu, cho nên chỉ đáng coi là triều-đại “nhuận-vận” không phải là chính thống. Đến như nhà Đông-Tấn chạy ra một phương, di ngưu dịch mã, lại càng không đáng gọi là chính thống. Cho nên Tam-quốc bị gồm vào nhà Tấn cũng chỉ như Lục quốc bị gồm thâu vào nhà Tần. Ngũ-Đại bị gồm thâu vào nhà Tùy mà thôi. Nhà Tần chẳng qua là kẻ khu trừ, dẹp đường cho nhà Hán. Tùy chẳng qua là kẻ khu trừ giúp cho Đường. Triều-đại chính thống trước là Hán. Còn Tần, Ngụy, Tấn đều không phải cả. Triều-đại chính thống sau này là Đường, là Tống. Còn Tề, Lương, Trần, Tùy, Nam-Tống, Hậu-Đường, Hậu-Tấn, Hậu-Hán, Hậu-Chu đều không phải cả. Mà không những Ngụy, Tấn mới kém Hán về tư cách chính đáng, đến ngay như Đường, Tống cũng chưa chính đáng bằng Hán. Vì Dượng-Đế nhà Tùy vô đạo thì Đường 15 lên thay. Như thế không được hiển nhiên như nhà Chu thay nhà Thương. Và người mở nghiệp Đường trước cũng xưng Đường-Công, đòi Cửu-tích, tức là cũng đi vào vết xe cũ của Ngụy, Tấn... thì việc lấy thiên-hạ cũng không chính đáng bằng nhà Hán. Đến như nhà Tống, lấy trung-hậu mà mở nước, lại có nhiều danh-thần đại nho trong đời, cho nên đáng gọi là chính-thống. Tuy nhiên, mãi đến hết đời Tống, 16 châu Yên-vân vẫn chưa được gồm vào bản đồ Trung-quốc, qui mô còn kém nhà Đường, lại thêm người mở nước nhân lúc Trần Kiều binh biến, mặc hoàng bào vào mình, nhận lấy thiên-hạ từ tay người mẹ góa con côi, thì Tống được thiên-hạ, tuy có chính đáng, vẫn chưa chính đáng bằng Hán vậy. Đường, Tống còn kém Hán, thì Ngụy, Tấn còn đáng bàn làm gì? Đức Cao-tổ nhà Hán trừ nhà Tần bạo ngược, đánh nước Sở về tội giết Nghĩa-Đế, mà hưng thịnh lên. Vua Hán Quang-Vũ thì giết Vương-Mãng mà lấy lại cơ-nghiệp nhà. Vua Hán Chiêu-Liệt thì đánh Tào-Tháo để giữ lấy tông-tự nhà Hán ở Tây-Xuyên. Tổ-tiên mở nước đã chính đáng, con cháu nối nghiệp cũng chính đáng. Lại cũng đừng nghĩ rằng Quang-Vũ thống nhất thiên-hạ mới là chính-thống, mà bảo rằng Chiêu-Liệt-đế thiên-an một phương thì không phải chính-thống. Chiêu-Liệt-đế được coi là chính thống, mà Lưu Dụ, Lưu-trí-Viễn cũng là con cháu nhà Hán lại không được coi là chính-thống, là vì sao? Thưa rằng: Dụ với TríViễn tuy dòng dõi họ Lưu nhưng đã quá lâu đời và không có bằng cớ. Còn Lưu-Bị là dòng dõi Trung-Sơn TĩnhVương, trong hoàng-phả có ghi. Hơn nữa, Dụ với Trí-Viễn đều giết vua cướp ngôi mà lấy nước, cho nên không thể sánh với Huyền-Đức được. Lý-tồn-Húc nhà Hậu-Đường sao không được coi là chính-thống? Vì Tồn-Húc vốn không phải họ Lý, họ Lý chỉ là họ được ban, so với Lã-Tần NgưuTấn không xa mấy. Cho nên không thể ví với Chiêu-Liệt nhà Thục-Hán. Lý-Thăng nhà Nam-Đường cũng không được kế nhà Đường là chính-thống là vì sao? Vì đã quá 16 lâu, quá xa đời, cũng như Lưu-Dụ, Lưu-trí-Viễn nhà HậuHán vậy. Không thể ví với Huyền-Đức, Lý-Thăng không được kể chính-thống nhà Đường, sao Cao-Tôn nhà NamTống lại được kể nhà Tống làm chính-thống? Xin thưa: Cao-Tôn lập con cháu Tống-Cao-tổ nối ngôi mình, để nghiệp Tống lâu dài mãi mãi, cho nên Cao-Tôn được coi là chính-thống. Cao-Tôn có lỗi giết Nhạc-Phi, tin dùng TầnCôi, lại không tâm niệm đến Nhị-Thánh, mà người chép sử còn lấy việc nối dài nghiệp Tống, để đặt Cao-Tôn vào chính-thống, huống chi Chiêu-Liệt-đế nhà Thục-Hán, vua tôi đồng tâm thề giết giặc nhà Hán? Thế thì Chiêu-Liệt-đế được coi là chính-thống, thật đúng lắm rồi, không còn nghi gì nữa. Bộ “Tam-quốc-chí” của Trần-Thọ chưa đề cập tới điểm này để biện-minh. Cho nên nay ta chiết-trung TửDương “Cương-Mục” để phụ-chính vào bộ TAM-QUỐCCHÍ DIỄN-NGHĨA này vậy. 2) Những sách cổ sử có rất nhiều, mà người ta chỉ thích đọc Tam-quốc-chí hơn cả, là vì xưa nay chưa có đời nào nhân tài tụ tập đông đảo như đời Tam-quốc. Xem người tài địch với người vô tài thì không lạ. Xem tài chọi với tài mới lạ. Coi chuyện tài chọi với tài, mà một nhân tài lại gặp phải chúng tài chưa lạ. Còn tài chọi tài mà thấy nhiều tay tài giỏi phải chịu thua một tay, ấy mới càng kỳ. Ta thấy rằng TAMQUỐC có “TAM-KỲ” và cũng có thể gọi là “TAM-TUYỆT”: Gia-cát Khổng-Minh là một tay “tuyệt”, Quan-vân-Trường là một tay “tuyệt”, Tào-Tháo cũng là một tay “tuyệt” nữa. Trước hết, tìm khắp sử sách, xét cùng cổ kim, các vị tướng văn hiểu đức rất nhiều, nhưng không ai bằng KHỔNGMINH là một vị hiền tướng danh cao muôn thuở. Khi “xử” thì ôm gối gẩy đàn, làm một ẩn-sĩ phong lưu. Khi “xuất” thì quạt lông khăn cuộn, vẫn không thay đổi phong độ của tao nhân nhã khách. Còn ngồi trong lều tranh, đã biết trước 17 thiên-hạ phải chia ba, tức là thông đạt Thiên-thời. Vâng cố mệnh trọng đại, mà phải sáu lần đem quân ra Kỳ-sơn, ấy là tận tụy nhân sự. Bảy lần bắt bảy lần tha Mạnh-Hoạch, tám cửa trận kỳ ảo, trâu gỗ ngựa máy, biến hóa khôn lường như quỷ thần, cúc cung tận tụy, quyết chí đến thân tàn, ấy là hết lòng làm thần tử. So tài đã hơn Quản, Nhạc. Sánh đức đã ngang Lã, Y. Thật là ĐỆ NHẤT KỲ-NHÂN trong cái rừng Tể-tướng hiền lương kim cổ. Lại xét khắp sử sách, danh tướng cũng thấy nhiều như rừng cây mây biển. Nhưng võ nghệ tuyệt luân siêu quần không ai bằng QUAN-VÂN-TRƯỜNG. Những lúc cuốn sử xanh kề bên ngọn đèn xanh, Vân-Trường có phong độ cực kỳ nho nhã. Lòng son như mặt đỏ, thần trí cực kỳ anh linh. Cầm đuốc đứng thâu đêm đến sáng, khiến người ca tụng đại tiết. Cắp một đao đi phó hội, được đời bái phục Thần uy. Một mình ngàn dặm ruổi rong, bền gan theo Chân-chúa. Rẽ lối Hoa-dung, buông tha bại-tướng, nặng nghĩa đáp triân. Hành động quang-minh như thanh thiên bạch nhật, đãi người hòa hảo như gió mát trăng trong. Lòng là lòng TriệuBiện đốt hương khấn trời, mà còn bội phần lỗi lạc. Ý là ý Nguyễn Tịch coi khinh đời mắt trắng, mà bội phần oai nghiêm. Thật là ĐỆ NHẤT KỲ NHÂN trong cái rừng võ tướng lừng danh kim-cổ. Và tìm trong sử sách, thấy gian-hùng quyền-tướng cũng đầy rẫy như chông gai. Nhưng túc trí đa mưu để thu lấy nhân tài mà che mắt thiên-hạ, thì không ai bằng TÀOTHÁO. Nghe lời Tuân-Húc, khởi quân Cần-vương mà tự ví với Chu-Văn-Vương, thì có vẻ như “trung”. Đánh phá ViênThuật về tội tiếm Đế hiệu, mà ngỏ lời chỉ muốn Tào-Hầu, thì nghe có vẻ “thuận”. Không giết Trần-Lâm vì yêu cái tài, thì tựa như có đức “khoan”. Không đuổi bắt Quan-công, để cho ông được toàn chí nguyện, thì ra vẻ người trọng “nghĩa”. Vương Đôn không dùng nổi Quách-Phác, mà Tháo thu dùng được kẻ sĩ, ấy là giỏi hơn. Hoàn-Ôn không biết rõ 18 Vương-Mãng, mà Tháo biết xét người, ấy là tinh đời hơn. Lý-Lâm-Phủ tay chế trị được An-lộc-Sơn nhưng cũng chưa bằng công Tháo đánh rợ Ô-Hoàn ở ngoài viễn ải. Hàn Thác-Trụ hủy biếm Tần-Cối khi đã chết, sao bằng TàoTháo đánh Đổng-Trác ngay lúc còn sống? Ngầm nắm giữ hết quyền bính Quốc-gia, mà vẫn để Hoàng-đế ngồi kiến hiệu, khác hẳn với Vương-Mãng trắng trợn giết Vua. Để dành việc thay bậc đổi ngôi cho con làm, Tháo hơn hẳn Lưu-Dụ là kẻ vội vàng cướp nước. Thật là ĐỆ NHẤT KỲ NHÂN trong số gian hùng kim cổ. Một bộ truyện có đến “tam kỳ”, mà mỗi kỳ nhân để đặc-biệt, không sử sách nào có cả. Cho nên càng đọc nhiều sử sách, càng phải khen “Tam-quốc-chí” là hay nhất vậy. 3) Tam-quốc có “Tam-tuyệt”, đã đành là không đời nào có nữa. Nhưng ngoài “tam tuyệt” ấy, còn có bao nhiêu kỳ tài nữa chứ! Ta hãy xét khắp các thời-đại trước đời Tam-quốc và sau đời Tam-quốc, mà hỏi rằng: Bầy mưu trong màn trướng, quyết thắng ngoài ngàn dặm, đã mấy ai được như Từ-Thứ, Bàng-Thống? Hành quân dụng binh như Chu Du, Lục-Tốn, Tư-mã-Ý... đã được bao người? Giỏi liệu người liệu việc như Quách-Gia, Trình-Dục, Tuân-Húc, Giả-Hủ, Bộ-Chất, Ngu-Phiên, Cố-Ung, TrươngChiêu... đâu dễ có nhiều? Võ công oanh-liệt, dũng-mãnh tuyệt-luân như Trương-Phi, Triệu-Vân, Hoàng-Trung, Nghiêm-Nhan, Trương-Liêu, Từ-Hoảng, Từ-Thịnh, ChuHoàn... đã có bao người? Xung phong hăm trận, kiêu-nhuệ vô địch như Mã-Siêu, Mã-Đại, Bàng-Đức, Quan-Hưng, Trương-Bào, Hứa-Chử, Điển-Vi, Trương-Cáp, Hạ-hầu-Đôn, Hoàng-Cái, Chu-Thái, Cam-Ninh, Thái-sử-Từ, Đinh-Phụng, Văn-Ương mấy đời có nhiều thế? Lại còn những cặp “lưỡng tài tương-đương” “lưỡng hiền tương ngộ” như Khương-Duy, Đặng-Ngải cùng trí dũng kiêm toàn, DươngHỗ, Lục-Kháng thong dong hỗ trấn. Về đạo học Thánh-hiền có Mã-Dung, Trịnh-Huyền. Tài văn có Thái-Ung, Vương- 19 Xán. Dĩnh-ngộ mẫn-tiệp như Tào-Thực, Dương-Tu; thông tuệ tinh-anh như Gia-cát-Khắc, Chung-Hội; giỏi đối ứng như Tần-Bật, Trương-Tùng; giỏi biện bác thuyết phục như Lý-Khôi, Hám-Trạch; không để nhục mệnh vua như TriệuTư, Đặng-Chi... đều là kỳ tài. Lại thêm tài thảo văn truyền hịch của Trần-Lâm, tài lý số Quản-Lộ, tài ảo thuật Tả-Từ. Lại có người hiểu cổ như Đỗ-Dự, các nhà bác-vật như Trương-Hoa, có bậc hiền-triết biết nhân-tài như Tư-mãHuy, có danh sĩ giữ vững tiết-tháo cao-thượng như QuảnNinh, có những ẩn-sĩ như Thôi-châu-Bình, Thạch-quảngNguyên, Mạnh-công-Uy; có đại-thần chống đối với quyền gian như Khổng-Dung; có danh-sĩ tố cáo tội ác gian-tướng như Nễ-Hành, có người mắng giặc như Cát-Bình, người tuẫn-quốc như Đổng-Thừa, Phục-Hoàn... và còn biết bao nhiêu trung-thần nghĩa-sĩ tài tuấn khác thường nữa? Đời Tam-quốc quả là “nhân tài chi đại đô hội” vậy. 4) Truyện Tam-quốc được kể rất khéo: tác-giả không khởi đầu truyện ở chỗ ba nước đã chiếm riêng ba phần, chân vạc thiên-hạ đã thành, mà tác-giả khởi đầu kể từ lúc Hoàng-đế nhà Hán còn cai trị cả bốn phương, rồi mở mối dần dần, làm cho độc giả thấy rõ nguyên nhân và những nhân vật đã góp phần tạo ra thế “chia ba”. Mỗi nhân-vật chính đều có nhiều nhân-vật phụ xoay quanh, làm cho nổi bật. 5) Nếu nói đến ba chủ nhân mở nghiệp ba nước, thì ai cũng biết là Lưu-Bị, Tào-Tháo, Tôn-Quyền, nhưng ít ai biết rằng ba nhân vật ấy mỗi người mỗi vẻ, giống nhau điểm này thì khác nhau điểm nọ... Chẳng hoàn cảnh ai giống hoàn cảnh ai, chẳng công việc ai giống công việc ai. 6) Truyện Tam-quốc có tổng khởi và tổng kết. Nhưng giữa hai phần chính ấy, có tới sáu tiểu khởi, sáu tiểu kết. Thế mà văn-tự liên lạc tài tình. 7) Truyện Tam-quốc lại có cái hay là truy đến nguồn tìm đến gốc mà viết. 20 8) Truyện Tam-quốc lại kỳ diệu ở chỗ “xảo thu ảo kết”: Thục không gồm thâu thiên-hạ, cũng không diệt được Ngụy. Ngụy lại bị chính bề tôi mình diệt mình cũng như mình đã diệt Hán trước kia. Có lẽ trời mượn tay Tấn để trả thù cho Hán, ấy là răn những kẻ bề tôi thí chúa sau này? Có thể nói rằng: Tạo-vật giỏi làm văn lắm. Nếu là người làm văn, ắt lòng không khéo kết thúc ra ngoài ý tưởng của người như thế được. Thế thì đọc Tam-quốc-chí tức là đọc thứ văn tự nhiên của Tạo-vật sáng tác, hơn hẳn đọc các áng văn do người ức tạo vậy. 9) Văn Tam-quốc lại tài tình ở chỗ đem khách vào đề làm nổi bật chủ. 10) Văn Tam-quốc có cái diệu: một cây nhiều cành, cùng cành khác lá, cùng lá khác hoa, cùng hoa khác quả. Người viết văn lấy sự khéo tránh trùng-điệp làm hay. Khéo tránh mà còn khéo phạm nữa. Không phạm mà cầu tránh thì không thấy sự khéo tránh ở chỗ nào. Đằng này cứ phạm rồi tránh sau, ấy mới càng thấy rõ cái tài tránh trùng-điệp. 11) Văn Tam-quốc có nhiều chỗ tuyệt diệu như sao băng mây chuyển, mưa trút gió lồng. Đỗ-thiếu-Lăng có câu thơ: “Thiên thượng phù vân như bạch y, Tư tu cải biến thành thương cầu”. Đó là ý nói việc đời biến cải không thể đoán trước được. Văn Tam-quốc cũng biến ảo như vậy. 12) Văn Tam-quốc có nhiều chỗ đẹp như mây cưa ngang đỉnh núi, cầu bắc liền bờ khe. Văn hay ở chỗ khéo chắp nối, lại cũng hay ở chỗ khéo cắt đoạn. 13) Văn Tam-quốc nhiều chỗ khéo mở đầu, dẫn dắt, như sắp có tuyết sa thì có quầng trăng báo trước; mưa sắp đổ xuống, thì có sấm ran. Sắp có đoạn chính văn, ắt có một đoạn nhàn văn đi trước để dẫn. Sắp có một đoạn đại văn, ắt có một đoạn tiểu văn mở đầu. 14) Văn Tam-quốc nhiều chỗ đẹp như những gợn dư-ba lăn tăn sau cơn sóng động, như những hạt mưa bụi lất phất 21 sau cơn mưa giông. Văn hay ắt có liên-thanh dẫn trước, có dư-thế nối sau như vậy 15) Văn Tam-quốc nhiều đoạn hay như ánh nắng sưởi biển băng, gió mát quét bụi nóng. 16) Văn Tam-quốc có chỗ hòa-hài như giữa hai tiếng trống ầm vang có xen tiếng địch tiếng sênh, như giữa hai tiếng chuông rền ngân có xen tiếng đàn cầm đàn sắt. 17) Văn tự-sự Tam-quốc có chỗ khéo như gieo hạt cách năm, sửa soạn mùa màng trước thời tiết. Người làm vườn giỏi, phải gieo hạt, chiết cành trước, đợi đến ngày mình muốn trồng cây. Người cao cờ đi một nước dự-mưu trước mươi nước, mà nó ứng với thế mình lập sau mươi nước. Phép tự-sự trong Tam-quốc cũng giống như thế. 18) Văn Tam-quốc có chỗ khéo như thêu thêm tơ vào gấm, dời mũi kim cho đều. Phàm phép tự-sự, chuyện gì còn thiếu ở thiên này, thì thiên sau phải kể bù vào. Thiên trên đã dài rồi mà còn nhiều chi tiết, thì cứ dứt đi, đem bớt xuống một thiên nào ngắn hơn sau đó. Như thế đoạn văn trước đã khỏi rườm rà, mà thiên sau không đến chỗ sơ-sài trống-trải. Không những việc trước khỏi phải ứ đọng, mà việc sau lại được đầy đủ sắc mầu. Thật là một diệu-phẩm của sử-gia. 19) Văn Tam-quốc đẹp như bức tranh thủy-mặc: rừng gần đậm nét non xa nhạt màu. Họa-sĩ tô mầu một bức tranh, cảnh nào gần thì tô cây tỏ núi đậm nét mực, cảnh xa nơi chân trời thì hòa loãng mực mà phết sơ qua... Như thế bức tranh khỏi tối màu loạn sắc. Nhà văn viết truyện cũng phải làm theo phép ấy. 20) Văn Tam-quốc cân đối, chỉnh nghi như hai ngọn núi nhìn nhau, như đôi bình phong cùng đứng. Phép đối-ngẫu có chính-đối, có phản-đối, có những hình ảnh đối nhau ngay trong một quyển, có những ý nghĩa đối nhau cách 22 mấy chục hồi, mà người đọc nhận thấy rõ ràng, không thể quên lãng. 21) Chuyện Tam-quốc kết cấu vững vàng, phần đầu phần cuối chiếu ứng nhau rực-rỡ mà lại được cài then đóng khóa chặt chẽ ở trung gian. 22) Lối tự-sự tài tình trong Tam-quốc-chí phảng phất giống “Sử-ký” của Tư-mã Long-môn nhưng chuyện Tam-quốc khó kể gấp mấy Sử-ký. Sử-ký được chia ra các phần nói riêng về từng nước. Nhân vật cũng được tả riêng. Cho nên có những bản-kỷ thế-gia liệt truyện riêng biệt. Tam-quốc-chí thì không thế. Phải hợp các bản-ký thế-gia liệt-truyện lại, rồi viết thành một truyện chung. Chia từng phần thì văn ngắn mà dễ khéo. Hợp làm một thì văn dài mà khó viết cho hay. 23) Đọc Tam-quốc-chí thú hơn đọc Liệt-quốc-chí. Sách Tảtruyện Quốc-ngữ, văn chương, hay thật đấy, nhưng họ Tả dựa theo Kinh mà dựng truyện. Kinh đã chia cắt, mỗi phần tự thành văn, không liên thuộc nhau, Quốc-ngữ thì tách khỏi Kinh mà tự làm một bộ sách, có thể liên-thuộc. Thế mà cuối cùng Chu-ngữ, Lỗ-ngữ, Tần-ngữ, Trịnh-ngữ, Tề-ngữ, Sở-ngữ, Ngô-ngữ, Việt-ngữ, tám nước chia tám thiên... Cũng chẳng liên thuộc với nhau. Đời sau người ta mới hợp Tả-truyện với Quốc-ngữ lại, làm thành “Liệt-quốc-chí”. Vì nhiều nước, sự việc phức tạp, cắt đoạn rời rạc... thành thử không quán-xuyến đầu đuôi. Trái lại, “Tam-quốc-chí diễnnghĩa” từ đầu đến cuối đọc thấy mạch-lạc liên-tục cho nên giá-trị hơn hẳn “Liệt-quốc-chí” vậy. 24) Đọc Tam-quốc-chí, thấy hay hơn đọc Tây-du-ký. “TâyDu” bịa đặt những việc yêu ma quỉ mị; truyện hoang-đường đại ngôn, không thể tin được. Tam-quốc-chí thì kể chuyện Đế-vương, kể chuyện thật và có sử-liệu để khảo chứng. Vả lại cái điểm hay của Tây Du thì Tam-quốc cũng có. Như những chuyện Suối Câm, Suối Đen... Có khác gì chuyện Tử-mẫu-hà, Lạc-thai-tuyền? Những nhân-vật kỳ quái như Đóa-Tư-Đại-vương, Mộc-Lộc Đại-vương... Có khác gì 23 những Ngưu-Ma Lộc-Lực, Kim-Giác, Ngân-giác? Những chuyên Phục-Ba hiển thánh, Sơn-thần giải mê... Có khác gì việc Nam-Hải Quan-Âm cứu nạn? Chỉ riêng một quyển gồm mấy hồi kể chuyện Hán-Thừa-tướng xuống đánh NamMan, cũng đủ sánh với bộ “Tây-Du” rồi. Đến như việc gặp gỡ ở chùa Trấn-quốc lúc trước với việc hiển-thánh trên núi Ngọc-tuyền về sau, khi đưa mắt trỏ giới-đao, cứu nhau thoát nạn mưu-sát: khi thì gọi lên không-trung một tiếng, ấy là đủ giúp nhau thức tỉnh thoát cơn mê. Lọ là phải tụngniệm thứ văn “một tấc linh đài, ba sao trăng khuyết” lòng mới giác-ngộ? 25) Đọc Tam-quốc-chí thích hơn đọc Thủy-Hử. Thủy-Hử tuy văn tự chân thực, không hư-ảo như Tây-Du, nhưng chuyện bỗng không mà có, mặc ý vẽ vời, tự-do thêm bớt, viết cho khéo không khó mấy. Tam-quốc-chí kể việc nhất định không có sửa đổi, ấy mới khó viết cho hay. Vả lại các nhân-tài trong Tam-quốc nhiều mà đặc sắc hơn. Nhân-vật nào cũng được tả xuất sắc gấp trăm gấp ngàn các nhânvật như Ngô-Dụng, Công-tôn-Thắng... trong Thủy-Hử. Vậy cho nên ta kết-luận rằng: trong số bảy “Tài-tử-thư”, Tam-quốc-chí diễn-nghĩa đáng là đệ nhất!